Wednesday, October 19, 2011

Những bài học lớn từ cuộc đời và sự nghiệp của thầy Đặng Đình Áng

Quyển kỷ yếu “Trong ngần bóng gương” kỷ niệm ngày sinh thứ 80 của GS. Đặng Đình Áng có giới thiệu đầy đủ thân thế và sự nghiệp của thầy, các giai thoại về thầy và những kỷ niệm sâu sắc của các học trò và bạn bè, đồng nghiệp của thầy. Vì thế chúng tôi sẽ không nhắc đến các chi tiết ấy mà chỉ xin rút ra bốn bài học lớn từ cuộc đời và sự nghiệp của thầy.

1/ Bài học thứ nhất là để thành công trong việc gì, nhất là trong sự nghiệp cả đời, cần phải có quyết tâm và tập trung cao độ, nhưng vẫn phải luôn tự đổi mới. Trong suốt quá trình giảng dạy và nghiên cứu, thầy luôn luôn tập trung vào lãnh vực chính là giải tích toán học qua hơn 120 bài báo đã công bố, nhưng vẫn thường xuyên đổi mới nội dung nghiên cứu giải tích ở từng thời kỳ, bất kể tuổi tác của thầy.

Xin nhắc lại rằng, Giáo sư Đặng Đình Áng vốn là một kỹ sư hàng không và được đào tạo về toán ứng dụng (cơ học môi trường liên tục) tại Học viện Công nghệ California CalTech. Đầu những năm 60 của thế kỷ trước thầy về Sài Gòn dạy học. Để mang đến cho anh em chúng tôi những kiến thức mới lúc bấy giờ về toán lý thuyết qua các môn tôpô, giải tích hàm, giải tích thực, thầy đã phải cố gắng tự nghiên cứu rất nhiều. Anh em chúng tôi trong thế hệ sinh viên đầu tiên đã rất thích thú tiếp thu những kiến thức mới này và nhất là phương pháp dạy học bình dị của thầy: luôn khuyến khích anh em
chúng tôi tự học, tự nghiên cứu hơn là nhồi nhét kiến thức, kết quả là cả chục sinh viên đã được thầy trực tiếp hoặc gián tiếp gửi đi đào tạo tiếp ở nước ngoài và đã
đạt được những thành công nhất định.

Đến những năm 70, ở tuổi bước qua “tứ thập nhi bất hoặc” để đi vào tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, thầy lại một lần nữa đổi mới nội dung giảng dạy và nghiên cứu sang lãnh vực giải tích toàn cục, lý thuyết điểm bất động và phương trình vi tích phân. Kết quả là một loạt luận án tiến sỹ đầu tiên do thầy hướng dẫn đã ra đời, trong đó luận án của GS. Dương Minh Đức là luận án tiến sỹ đầu tiên được bảo vệ ở phía Nam sau năm 75.

Sang những năm 80, dù đã bước vào tuổi 60, thầy lại một lần nữa đổi mới nội dung giảng dạy và nghiên cứu. Lần này thầy chuyển hướng sang nghiên cứu về phương trình đạo hàm riêng, giải quyết những bài toán ngược, bài toán không chỉnh. Hơn phân nửa các công trình nghiên cứu của thầy đã được công bố trong giai đoạn này. Trong số những người bảo vệ luận án tiến sỹ trong giai đoạn này và tiếp tục nghiên cứu thành
công có thể kể đến Đặng Đình Hải và Lê Khôi Vỹ, hiện đang giảng dạy ở Mỹ và Đặng Đức Trọng, hiện là Trưởng khoa Toán – Tin học, Đại học Khoa học Tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh.

Cuối cùng, ở tuổi 70 sang 80, các công trình về phương trình của thầy Áng hướng đến cơ học, tình yêu đầu đời của mình. Thầy đã cùng các học trò và đồng nghiệp công bố trên 20 bài báo trong đó sử dụng công cụ phương trình tích phân phi tuyến, phương trình đạo hàm riêng để giải các bài toán thú vị trong cơ học và địa vật lý. Cũng cần nói thêm các kết quả to lớn thầy đạt được đã đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng nền toán học ở miền Nam và qua đó góp phần phát triển nền toán học của cả nước. Thầy đã đào tạo một đội ngũ các nhà nghiên cứu trình độ cao về lĩnh vực bài toán ngược và phương trình đạo hàm riêng. Giám đốc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh luôn
mong mỏi hình thành được các trường phái nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia có đẳng cấp quốc tế. Giáo sư Đặng Đình Áng đã thành công trong việc xây dựng một trường phái như vậy về bài toán ngược và phương trình đạo hàm riêng tại Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Xuất thân là kỹ sư hàng không nên lối giảng dạy của thầy mang tính ứng dụng rất cao. Vì thế, trường phái toán học tại Tp. HCM có đặc điểm lớn là hướng rất mạnh sang lĩnh vực ứng dụng toán học.

Mặt khác, với uy tín khoa học của thầy và qua đông đảo bạn bè, thầy đã mời được nhiều nhà toán học có uy tín trên thế giới tham dự các kỳ hội thảo quốc tế do thầy tổ chức ở Tp. Hồ Chí Minh, qua đó nâng cao vị thế của nền toán học Việt Nam trên thế giới và khu vực.

2/ Bài học thứ hai là về quan điểm giảng dạy. Khi thầy về nước, ngoài những kiến thức mới như đã nói trên, thầy còn mang về một phương pháp học tập mới: tự học và tham gia nghiên cứu khoa học sớm. Các sinh viên được trang bị kiến thức cơ bản vừa đủ để tham gia nghiên cứu khoa học. Các kiến thức cơ bản không học dàn trải một cách tràn lan như nhiều người vẫn nghĩ, thầy thường nói “học nhiều thối óc”. Chỉ khi đã đạt mức độ sâu trong lĩnh vực nghiên cứu mới mở rộng hay chuyển sang lĩnh vực khác. Tôi còn nhớ ngay khi học năm thứ ba, ngoài những môn quen thuộc, chúng tôi còn ghi tên học các môn MA I và MA II (Toán học thâm cứu). Thầy đã giao cho chúng tôi đọc các tài liệu rất mới thầy mang từ Mỹ về như đại số hàm, đại số các hàm giải tích là các hướng nghiên cứu thời thượng lúc bấy giờ. Các năm sau đó cũng vậy, thầy luôn luôn giới thiệu cho sinh viên những vấn đề rất mới, qua đó giúp cho những người làm toán ở miền Nam được tiếp cận với các hướng nghiên cứu hiện đại. Truyền thống sinh viên tham gia
nghiên cứu sớm ngày nay vẫn còn được tiếp tục tại khoa Toán-Tin học, các sinh viên giỏi khi ra trường đã có thể có một hay hai bài báo quốc tế.

3/ Bài học thứ 3 mà tôi muốn nhắc đến là cách xử thế tuyệt vời của thầy. Thầy luôn luôn giúp đỡ mọi người, không chỉ riêng học trò của mình qua các việc như nhận xét một luận án, tham gia hoặc chủ trì hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp nhà nước và đặc biệt là tích cực ủng hộ họ trong các cuộc họp của hội đồng ngành toán. Mặt khác, thầy luôn luôn vun đắp và mở rộng các mối quan hệ bạn bè. Từ tình bạn lâu dài với GS. L. Knopoff ở UCLA, GS. E. Hewitt ở Washington State University, hay GS. D. Daykin ở Nanyang University vào những năm 50-60, đến các quan hệ bạn bè mới sau này như với các GS. Alain Phạm, K. Smith, R. Gorenflo,. . . Đối với họ, thầy không chỉ là bạn bè mà còn là cộng tác viên trong những công trình nghiên cứu. Kể cả những người chỉ
thoáng gặp qua thầy như GS. P. Cartier, cố GS. M. Boujot, họ luôn giữ tình cảm trìu
mến với thầy nhiều năm sau này. Ở thầy luôn toát ra một tinh thần thân ái bao la. Đây có thể do ảnh hưởng của Nho gia, mặc dù thầy theo tân học. Nổi trội nhất trong ảnh hưởng của Nho giáo, qua cách xử thế của thầy, có lẽ là đạo trung dung. Có lẽ nhờ vậy mà thầy luôn luôn giữ được thăng bằng, thoát khỏi các cuộc mâu thuẫn kéo dài để có thể tập trung vào chuyên môn. Khi nói đến một con người, thầy luôn nhìn thấy khía cạnh tốt đẹp ở họ hơn là chỉ nghĩ đến điều xấu. Thầy hay nói “arsenic tuy là một chất độc, nhưng vẫn được dùng để chữa răng”.

4/ Bài học cuối cùng mà tôi muốn nhắc đến là nhân sinh quan lạc quan của thầy. Có lẽ nhờ đó mà thầy đã vượt qua những lúc khó khăn trong cuộc sống đầu những năm 60 thế kỷ trước và năm 1975, khi có cơ hội xuất cảnh ra nước ngoài nhưng thầy đã chọn ở lại với đất nước, với học trò và đồng nghiệp. Chính nhờ tinh thần lạc quan mà thầy đã vượt qua được những lúc khó khăn nhất trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước đầu những năm 80. Trong lúc điều kiện làm việc không thuận lợi, thầy vẫn vui vẻ dạy học trò và hàng ngày lấy việc đi bộ ra chợ làm thú vui nho nhỏ. Thầy cũng đã đem tinh thần lạc quan đến cho nhiều học trò của mình. Những năm gần đây, khi ngồi uống rượu vang với tôi, thầy hay nói “mình ở đây sướng thật!” Và có lẽ cũng với tinh thần lạc quan đó,
thầy đã lấy các buổi hòa nhạc, nhất là các buổi hòa nhạc của Câu lạc bộ Hoa sen để
tô thêm nét đẹp cho các kỳ hội nghị quốc tế mà thầy đứng ra tổ chức. Ở thầy việc
thổi sáo đã được nâng lên từ thú vui tao nhã thành một nghề chơi cũng lắm công phu.

Với phong cách làm việc và sống như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi tổng kết ở tuổi 80, thầy đã có hơn 120 bài báo, phần lớn đăng trên các tạp chí và kỷ yếu hội nghị quốc tế, thầy đã được mời đi thỉnh giảng từ Mỹ đến châu Âu, từ Nhật Bản đến một số nước Đông Nam Á. Bạn bè thầy có ở khắp nơi và cho đến gần đây, nhiều người vẫn sắp xếp đến dự các hội nghị quốc tế tại Tp. Hồ Chí Minh. Cuộc sống riêng của thầy cũng rất hạnh phúc. Thầy với cô sống với nhau hơn 60 năm, qua cái tuổi mà người ta vẫn tổ
chức “đám cưới vàng” và “đám cưới kim cương”. Thầy hay nhắc lại câu chuyện: khi thầy nhận được bằng Ph.D ở CalTech thì cô cũng nhận được bằng Ph.T (Put your husband through) trên đó có chữ ký của thầy. Thầy và cô có năm người con thì ba người đã theo đuổi sự nghiệp toán học. Cô con gái đầu và cô con gái út tuy theo ngành khác nhưng có chồng lại là những người làm toán.

Có thể nói rằng Giáo sư Đặng Đình Áng là một sĩ phu Bắc Hà nhưng đã thành danh và hoàn danh ở Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh.


Nguyễn Hữu Anh và Đặng Đức Trọng
(ĐH Khoa học Tự nhiên tp. Hồ Chí Minh)
Thông tin Toán học số 3 năm 2011

No comments:

Post a Comment